Viêm phế quản truyền nhiễm là căn bệnh cấp tính, lây lan nhanh trên gia cầm. Bệnh có thể mắc trên mọi giống gà, mọi lứa tuổi. Bệnh gây ra các triệu chứng hô hấp, tăng hao hụt, tăng FCR trên gà thịt. Trên gà đẻ, bệnh còn ảnh hưởng nghiêm trọng hơn nữa do gây giảm đẻ nhanh, giảm chất lượng trứng. Trường hợp nhiễm trên gà hậu bị (giai đoạn gà con 1 – 2 tuần tuổi), bệnh có khả năng phá hủy không phục hồi trên buồng trứng khiến gà đẻ năng suất trứng thấp, đẻ kém, thậm chí tịt đẻ sau này (gà đẻ giả).

  1. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG VÀ THIỆT HẠI TIỀM TÀNG DO IBV GÂY RA TRÊN GÀ ĐẺ

Triệu chứng hô hấp không điển hình khi gà mắc bệnh IB là: gà khẹc, ngáp, có âm rale khí quản, chảy dịch mũi.

Gà giảm ăn mạnh, chậm lớn. Trên gà lớn > 6 tuần tuổi, các triệu chứng lâm sàng về hô hấp lại càng không rõ ràng, nếu không quan sát kỹ hoặc kiểm tra gà về ban đêm thì rất khó phát hiện.

Trường hợp gà bị nhiễm các biến chủng gây bệnh lý ở thận (hay thường được gọi là biến chủng thể thận), gà thường có các biểu hiện: tăng uống nước, đi phân nước, phân trắng lỏng và tỷ lệ chết cao.

Trên gà đẻ: gà giảm đẻ, đẻ trứng mất màu, vỏ mỏng, dị dạng có thể trước cả khi có dấu hiệu hô hấp. Mức độ giảm đẻ có thể dao động từ giảm đẻ nhẹ đến tận 70% phụ thuộc vào các yếu tố: chủng virus gây bệnh, tình trạng miễn dịch của đàn với chủng gây bệnh, thời gian nhiễm bệnh và bệnh kế phát.

  • Gà đẻ mắc IBV trong giai đoạn đầu khai thác trứng thì mức độ suy giảm về tỷ lệ đẻ, chất lượng trứng nặng hơn, kéo dài lâu hơn so với khi mắc sau giai đoạn đẻ đỉnh.
  • Trường hợp giảm đẻ nhẹ, năng suất trứng có thể phục hồi sau 1 – 2 tuần
  • Trường hợp giảm đẻ nặng, đàn gà có thể mất tới 6 – 8 tuần để phục hồi, thậm chí một số trường hợp không thể phục hồi lại tỷ lệ đẻ tiêu chuẩn.

Bên cạnh giảm tỷ lệ đẻ, nhiễm IBV cũng gây giảm chất lượng trứng: từ mất màu vỏ trứng, tăng tỷ lệ trứng vỏ mỏng, dị dạng, tới lòng trắng trứng loãng (trứng mới).

Trường hợp gà bị “đẻ giả” do mắc IBV ở giai đoạn 1 – 2 tuần tuổi: đến thời điểm lên đẻ, đàn gà có thể trông hoàn toàn khỏe mạnh, lượng ăn uống bình thường nhưng lên đẻ chậm hoặc có đẻ đúng thời gian nhưng tỷ lệ đẻ thấp hơn khoảng 35% so với tiêu chuẩn.

  1. THÁCH THỨC TRONG PHÒNG BỆNH IB TRÊN GÀ ĐẺ
  • Bệnh có thể mắc ở mọi lứa tuổi, mọi giống gà. Nếu một trong các khâu phòng bệnh (an toàn sinh học, lịch vaccine) có lỗ hổng kết hợp với tình trạng sức khỏe của đàn gà, virus hoàn toàn có thể “tận dụng” cơ hội để gây bệnh cho đàn gà.
  • Virus IB lưu hành nhiều chủng, type khác nhau, mức độ bảo hộ chéo giữa các chủng thường rất kém. Điều này đặt áp lực khi xây dựng lịch vaccine phòng IB, cần lựa chọn vaccine có chứa kháng nguyên tương đồng hoặc có độ tương đồng cao với virus đang lưu hành ngoài thực địa để đảm bảo hiệu quả bảo hộ.
  • Các công tác kiểm soát an toàn sinh học trong chuồng trại chăn nuôi gà hiện phần lớn chưa được chặt chẽ, tồn tại nhiều nguy cơ rủi ro trong truyền lây bệnh từ ngoài vào hoặc lây lan bệnh giữa các chuồng khác nhau trong chuồng.
  1. CHIẾN LƯỢC ĐỂ KIỂM SOÁT BỆNH IB TRÊN ĐÀN GÀ ĐẺ
    • An toàn sinh học luôn là hàng rào quan trọng đầu tiên

Với đặc thù thường bố trí trong 01 trang trại nuôi nhiều đàn với nhiều lứa tuổi khác nhau, điều này khiến việc áp dụng chăn nuôi cùng vào/cùng ra rất khó áp dụng trong thực tế.

Tuy nhiên khuyến cáo các trang trại cần cố gắng thực hiện chặt chẽ các công tác khác trong kiểm soát an toàn sinh học để giảm thiểu áp lực mầm bệnh trong môi trường chăn nuôi và ngăn chặn bệnh lây lan:

  • Sát trùng định kỳ môi trường, không khí trong và ngoài chuồng nuôi trong suốt thời gian khai thác, tần suất 2 – 3 lần/tuần.
  • Sát trùng định kỳ các dụng cụ chăn nuôi, dụng cụ tiếp xúc với gà, chất độn chuồng, xử lý phân các chuồng đã bị nhiễm bệnh.
    • Vaccine phòng bệnh IB cho gà đẻ

Chủng vaccine để tạo miễn dịch chủ động phòng bệnh kết hợp với các công tác kiểm soát an toàn sinh học sẽ tạo hàng rào bảo hộ cả “bên ngoài” và “bên trong” cơ thể gà.

Tuy nhiên, do sự phức tạp của các chủng virus IB lưu hành, nên lịch vaccine phòng bệnh IB trên gà hậu bị, gà đẻ cần phải có một số lưu ý quan trọng sau đây:

  • Sử dụng vaccine chứa chủng có độ tương đồng cao với chủng virus đang lưu hành ngoài thực địa.
  • Kết hợp giữa vắc xin nhược độc và vắc xin vô hoạt để tạo “hàng rào miễn dịch nhiều lớp” cho đàn gà.
    • Tăng cường sức đề kháng tự nhiên cho đàn gà

Định kỳ sử dụng các sản phẩm bổ trợ như: men tiêu hóa (All-zym hoặc Decazym Max+); giải độc gan, tăng cường hoạt động của hệ miễn dịch (Escent L hoặc Liptosafe Plus), vitamin tổng hợp (AD3EC hoặc Vit.E + Selenium) giúp tăng cường thể trạng của đàn gà, vừa gia tăng năng suất, vừa giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh nói chung.

Hiện tại công ty cổ phần Thú Y Xanh Việt Nam đang phân phối bộ sản phẩm vắc xin phòng bệnh IB trên gà, với đầy đủ vắc xin nhược độc (Medivac ND IB, Medivac IB variant, Medivac IB H52), vắc xin vô hoạt (Medivac ND G7 IB variant Emulsion) giúp bảo hộ cho đàn gà khỏi các căn bệnh do IB thể cổ điển (hô hấp) và các biến chủng IB đang lưu hành phổ biến tại Việt Nam (biến chủng thể thận 793b, biến chủng thể tích nước ống dẫn trứng QX-like).

Nguồn tham khảo:

https://layinghens.hendrix-genetics.com/en/articles/infectious-bronchitis-in-poultry-chickens/

Diseases of poultry, 14th Edition

Bài viết liên quan
Đăng ký nhận tin tức mới

Đăng ký để nhận các bài đăng blog mới nhất vào hộp thư đến của bạn mỗi tuần.

Bằng việc đăng ký, bạn đồng ý với Chính sách bảo mật

Tin tức nổi bật

FacebookMessenger